Điều 387 Bộ luật hình sự quy định tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù

Căn cứ pháp lý

Điều 387 Bộ luật hình sự quy định tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù như sau:

“Điều 387. Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù

1. Người nào đánh tháo người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người áp giải;

d) Đánh tháo người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc người bị kết án tử hình.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

Dấu hiệu pháp lý tại Điều 387 Bộ luật hình sự

Khách thể của tội phạm

Tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù xâm phạm đến hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Đối tượng tác động của tội phạm này mà người phạm tội nhằm vào không phải là sự giám sát của các lực lượng bảo vệ, canh gác, dẫn giải, mà chính là người mà người đang bị giam, giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang bị xét xử. Thông qua những người này mà người phạm tội xâm phạm đến khách thể.

Như vậy, khách thể của tội phạm là hoạt động bình thường của các cơ quan tiến hành tố tụng, công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Điều 387 Bộ luật hình sự quy định tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù
Điều 387 Bộ luật hình sự quy định tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù

Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi đánh tháo người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù.

Hậu quả của tội  phạm không phải dấu hiệu bắt buộc của tội phạm. Tội phạm hoàn thành kể từ thời điểm có hành vi khách quan xảy ra.

Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này là cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ những người đang bị giam, đang bị giữ, đang bị dẫn giải hoặc đang bị xét xử mới có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.

Người đang bị giữ là người đã có quyết định tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hoặc người bị bắt theo lệnh truy nã, bị bắt do phạm tội quả tang hoặc bị bắt theo lệnh bắt khẩn cấp. Những người bị giữ theo quyết định hành chính, nếu bỏ trốn thì không phải là chủ thể của tội phạm này, kể cả trường hợp sau khi bị bắt lại họ bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, vì thời điểm họ bỏ trốn họ chưa bị áp dụng biện pháp tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Người đang bị dẫn giải là người đang bị giam, giữ nhưng đang bị dẫn giải từ nơi này đến nới khác (từ trại giam, tại tạm giam, nhà tạm giữ đến trại giam, tại tạm giam, nhà tạm giữ khác hoặc dẫn giải bị can, bị cáo đến phòng xử án để Toà án xét xử…); người bị bắt theo lệnh truy nã, bị bắt do phạm tội quả tang, bị bắt khẩn cấp đang bị dẫn giải về nhà tạm giữ, trại tạm giam.

Người đang bị xét xử là bị cáo bị giam hoặc bị tạm giam nhưng đang bị Toà án xét xử tại phòng xử án đã lợi dụng sự thiếu cảnh giác của lực lượng canh giữ đã bỏ trốn khỏi phòng xử án. Đối với bị cáo không bị tạm giam hoặc bị giam (tại ngoại) đã đến phiên toà nhưng trong quá trình xét xử họ vắng mặt không có lý do thì không phải là chủ thể của tội phạm này.

Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên.

Bộ luật Hình sự không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự nhưng có quy định loại trừ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Như vậy, người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của mình.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự. Người từ đủ 16 tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một số điều nhưng không có điều nào thuộc Chương XXIV Bộ luật hình sự. Như vậy chủ thể của tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

Mặt chủ quan của tội phạm

Người phạm tội đánh tháo người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù thực hiện hành vi đánh tháo với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp. Tức là người phạm tội nhận thức rõ hậu quả người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử, chấp hành án phạt tù được đánh tháo khỏi cơ sở giam giữ, xét xử, mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.

Hình phạt tại Điều 387 Bộ luật hình sự

Điều 387 Bộ luật hình sự quy định 03 Khung hình phạt đối với người phạm tội như sau:

– Người nào đánh tháo người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành án phạt tù, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 119 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

– Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Dùng vũ lực đối với người canh gác hoặc người áp giải;

d) Đánh tháo người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc người bị kết án tử hình.

– Khung hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Trên đây là nội dung tội phạm theo tại Điều 387 Bộ luật hình sự. Nếu có bất kỳ thắc mắc gì về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với Luật Trần và Liên Danh để được hỗ trợ nhanh nhất.

Messenger
Zalo
Hotline
Gmail
Nhắn tin